bộ mật tông, ( thần chú mật, mantra, các câu chú, kết ấn, các kiểu ấn , thần chú)

230,000

SÁCH GỒM 4 TẬP ( in chung vào 1 cuốn )

A. TẬP MỘT
HIỂN MẬT VIÊN THÔNG THÀNH PHẬT TÂM YẾU

Lời nói đầu của dịch giả
Lời tựa của soạn giả
1. Hiển giáo Tâm yếu
2. Mật giáo Tâm yếu
3. Hiển Mật Song Biên
4. Vui mừng được gặp lời trước thuật
5. Chuẩn Đế Sám Pháp
6. Vào đạo tràng trì Chú Chuẩn Đề
7. Cách dùng kính đàn và an chín chữ chú Chuẩn Đề
8. Nhập nhà mới và trị bệnh
9. Chú Tỳ Lô Giá Na Phật
10. Chú Quảng Bát

B. TẬP HAI
KINH ĐẠI THỪA TRANG NGHIÊM BẢO VƯƠNG

Lời giới thiệu
Lời Tựa
1.Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, quyển 1
2.Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương , quyển 2
3.Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, quyển 3
4.Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, quyển 4
5 Kinh Thất Câu Chi Phật Mẫu Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni
6 Thất Câu Chi Phật Mẫu Tâm Đại Chuẩn Đề Đà La Ni Pháp
7 Thất Câu Chi Độc Bộ pháp
8 Chuẩn Đề Biệt pháp
9 Kinh Thánh Lục Tự Tăng Thọ Đại Minh Đà La Ni

C. TẬP BA
KINH CHUẨN ĐỀ ĐÀ LA NI HỘI THÍCH

Quyển Thượng
1. Lời tựa của ngài Hoằng Tán
2. Phần kinh văn
3. Nghi quỹ niệm tụng
Quyển Trung
4. Văn tán thán
5. Bổn tôn Đà La Ni bố tự pháp
6.Tư duy tự mẫu chủng tử nghĩa quán tưởng Phạn tự
7. Phiến để ca pháp. Dứt tai ương pháp môn
8. Bố sắc trí ca pháp. Tăng ích pháp môn
9. Phạt thi ca ra noa pháp. Kính ái pháp môn
10. A tỳ giá lỗ ca pháp. Hàng phục pháp môn
Quyển Hạ
11. Phương pháp họa tượng Chuẩn Đề Tôn Na Bồ Tát
12. Pháp sám ngũ hối
13. Trì tụng pháp yếu
14. Tu bi điền và kính điền
15. Quán Tự Tại Bồ Tát cam lồ chơn ngôn

16. Lục Tự Đại Minh chơn ngôn
17. A Di Đà Phật nhất tâm tự chú
18. Văn Thù Bồ Tát ngũ tự tâm chú
19. Đại bảo quảng bát lầu các thiện trụ bí mật Đà La Ni
20. Công đức Bảo Sơn thần chú
21. Tam tự tổng trì chơn ngôn
22. Sổ châu công đức pháp
23. Hành du già bí mật pháp yếu
24. Tụng kệ, sái tịnh, kiết ấn hộ thân
25. Tịnh pháp giới, kiết giới, triệu thỉnh, cúng dường
26. Bổn tôn gia trì
27. Tán thán
28. Phụ bản trì chú tháp

D. TẬP BỐN
KINH MẠT PHÁP NHẤT TỰ ĐÀ LA NI

1. Kinh Đại Đà La Ni mạt pháp trung nhất tự tâm chú
2. Kinh Đại Phương Quảng Bồ Tát tạng kinh trung
3. Văn Thù Sư Lợi căn bổn Nhất Tự Đà La Ni kinh
4. Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát chú tạng trung nhất tự chú vương kinh
5. Uế tích Kim Cang thuyết thần thông đại mãn Đà La Ni pháp thuật linh yếu môn
6. Uế tích Kim Cang cấm bách biến pháp kinh
7. Thần biến diên mạt pháp
8. Phật nói Bắc Đẩu Thất Tinh diên mạng
9. Phật nói thất tinh chơn ngôn thần chú
10.Kinh nhất thiết công đức Trang nghiêm vương
11.Phật nói kinh Trang Nghiêm Vương Đà La Ni chú
12.Phật nói kinh Trì cú Thần Chú
13.Kinh Tăng Huệ Đà La Ni
14.Quán Thế Âm khuyết trừ nhất thiết nhãn thống Đà La Ni
15.Quán Thế Âm linh chi căn cụ túc Đà La Ni
16.Hoạch chư thiền tam muội nhất thiết Phật pháp môn Đà La Ni

E. PHỤ THÊM
PHƯƠNG PHÁP TU TỊNH TỌA

1. Thiên I. Lời tựa của ông Tưởng Duy Kiều
2. Thiên II. Tịnh tọa công phu
3. Thiên III. Lục diệu pháp môn
4. Thiên IV. Thiện căn pháp
5. Thiện V. Kết quả

BỘ MẬT TÔNG – THÍCH VIÊN ĐỨC

Bộ Mật Tông

Xưa đức Như Lai là bậc tôn quý xuất thế trong đời, đem đạo pháp giáo hóa mọi người, xiển dương pháp Đại Thừa, dắt dẫn quần mê, mở bày ra muôn pháp. Phương pháp tuy nhiều, tùy lúc mà nói, nhưng mục đích vẫn chỉ làm thế nào để vào được biển viên mãn, cho nên chỗ trở về chỉ là Nhứt thừa (Phật thừa). Song, Hiển giáo Mật tông đều gồm thâu cả tánh tướng. Nghĩa lỳ Hiển giáo chia làm năm thời tóm lại gọi là Tô Đại Lãm (Kinh). Mật bộ bao gồm ba tạng, riêng gọi là Đà Ra Ni (Thần chú). Người đọc Hiển giáo cho rằng: Không, Hữu, Thiền, Luật trái nghịch nhau, mà không xét tận đến viên lý, cứu cánh. Còn người học Mật bộ, lấy Đàn, Ấn, Chữ, Tiếng làm phép tắc, nhưng chưa biết chỗ thần thông bí áo. Vội cho Hiển giáo Mật tông mâu thuẫn nhau, Tánh tông, Tướng tông lỗ tròn cán vuôn khó ăn khớp nhau. Vì thế sanh tâm chống trái, chê bai, hủy báng. Tóm lại chỉ thiên chấp một khía cạnh nào đó, mờ mịt tánh viên thông. Nếu không phải là bậc Chí Trí, làm sao dung hội được các đầu mối sai khác, sự nghiệp có thành tựu, người mới hoằng dương được đạo. Nay vì Hiển Mật Viên Thông pháp sư, trong thời bấy giờ, người đời suy tôn Ngài là bậc anh ngộ, thiên tính của Ngài quá thông minh. Khi còn nhỏ tuổi, Ngài lễ lạy các bậc danh sư cầu học. Trải qua 15 năm học hỏi rất tịnh tường, nào là tham thiền hỏi đạo, học rộng nghe nhiều, về mặc nội điển Ngài tinh thông các tông Ngũ giáo. Ngoại điển, Ngài thấu suốt các vấn đề bí áo của trăm họ. Ái ố không giao xem, lợi danh chẳng màng đến. Đã thế mà Ngài lại nhàm chán chốn đô thành, lành mình nơi hang núi.

Trải qua năm, tháng khổ hạnh, tận tụy đem hết chí lực nghiên cùng chỗ thâm huyền của đại tạng thâu nắm những yếu lý tinh ba thuộc lòng nơi tâm ý. Giải phẫu tất cả nghĩa lý rất rõ ràng như các chỉ trên bàn tay. Ngài xem khắp giáo lý Đại, Tiểu Thừa, không ra ngoài hai đường: Hiển Mật, cũng cùng một mục đích là chứng Thánh vị, nhập vào được Diệu đạo Chơn như.

Xét nơi văn thể thời có khác, nhưng đó cũng chỉ là sự vuông tròn hơn kém của mâm bát, còn chỗ trở về nơi chánh lý thời đồng nhau. Như cái đồ để trong nhà đều gồm thâu cả không, hữu. Thế mà người học lại vọng sanh dị nghị, mời mịt không biết chỗ thông dung. Nhơn đó thâu góp biên thành tập sách tâm yếu này, văn thành một quyển, lý tận vạn đường. Hội Tứ giáo tổng quy về viên thông, thâu Ngũ mật bộ gồm thành một bộ. Hoà nhũ tô thành đề hồ. Thâu góp tinh ba, mây ráng làm thành cam lồ vị. Thật lạ chỗ hội yếu của chư Phật. Đáng là kim chỉ nam cho người đời sau. Khiến ai xem vào đây như gặp được ngọc minh châu như ý, chỗ sở cầu đều toại nguyện. Mong mỏi các người nương theo đây mà thực hành như ăn trái thiện khiến, không có gì không lành.

Trần Giác này nghĩ hổ thẹn sự học hỏi còn sơ sài, lời văn không hoa lệ. Nhân gặp một ngày, tôi được đến thăm thầy tôi, may mắn được nghe lời dạy dỗ như qua thủ phất trần, thoạt tiên tôi mở mang được kiến thức hẹp hòi. Thầy dặn dò tôi: Nên đem truyền lại cho người đời. Tôi vội soạn ra quyển văn này, vẫn hổ thẹn với khả năng diễn đạt lý mầu, nhưng cũng lấy làm lời nói đầu.

Category:
.
.
.
.